Monday, 13 January 2014

NỖI BUỒN TIẾNG VIỆT

Những người con của Mẹ Âu Cơ, một thời xuống biển và lên núi, lúc quay về thành thị nhìn nhau bỗng không thể nói và nghe ra được điều gì. Tâm trạng bấy giờ có ngậm ngùi không?

Nhân đọc lại ‘Chiêu hồi ngôn ngữ’
của tác giả Tâm Thanh trên trang Blog’s Hà Giang

1. ‘Văn hóa thuần túy!’

Một ngày, bỗng, sợ chữ nghĩa! Khi chữ nghĩa trở thành một thứ của cải riêng, cho một triều đại, đế vương(?) Và một ngày bỗng nhiên ngẫm ra, rằng, “chữ” sắc như dao, kẻ chơi dao có ngày đứt tay là nhẹ, nặng thì vong mạng!

Một ngày, nghe người ta kháo nhau con ‘chữ’ này, ‘câu văn kia’ hiển nhiên trở thành một thứ nô lệ của những ông chủ đầy quyền thế, để lúc nói ra, viết thành là tức khắc được đặt tên, mà trong bất kỳ hoàn cảnh nào chỉ là những tên gọi phù phiếm. Nói khác đi, trong trường hợp này, con chữ là những ‘tử tội!’

Một ngày, thoắt thất kinh tự hỏi: nguồn gốc của chữ sinh ra từ đâu, từ vương triều cao nghều nghệu, hay từ thấp bé cổ miệng dân dã!?

Không có câu trả lời, bao lâu khi nó vẫn luôn là một thứ vũ khí của những kẻ đầu cơ chữ nghĩa, cốt cho những thủ thuật chính trị sáo rỗng.

Lấy lời của học giả Phạm Quỳnh, nêu lại chuyện xưa mà ngẫm nhân tình thế thái bây giờ:

“Ngày nay những người phản đối chữ Nho thường lấy hai cớ sau này: Một cớ là chữ Nho là chữ của người Tàu, người Tàu trong bao lâu đã áp-chế dân mình, hiện nay vẫn còn tranh hết lợi-quyền của người mình về đường buôn bán. Người Việt-Nam cớ chi lại học chữ Tàu, dùng chữ Tàu, để chịu lấy cái áp-chế vô-hình của người Tàu nữa? – Người nào nói như vậy là lẫn việc văn-tự với việc chính-trị, việc kinh-tế. Người Tàu xưa kia về đường chính-trị đã áp-chế ta nhiều, ta nên ghét là phải, nhưng sự ghét đó là thuộc về lịch sử…”

“… Còn như chữ Nho là văn-tự của Tàu thì hiện không có quan hệ gì đến chính-trị kinh-tế cả. Trên kia đã nói chữ Nho là một thứ “tử-văn” chung cho cả nước Á-đông đã chịu văn-hóa của Nho học. Ta học chữ Nho không phải là chịu quyền chuyên-chế của người Tàu, tức cũng như người Âu-châu học chữ Latin không phải là chịu quyền chuyên-chế của người Ý-đại-lợi ngày nay. Ta học chữ Nho mà thử mở quốc-sử coi, biết bao nhiêu phen ta đánh Tàu siểng-liểng, đuổi người Tàu ra ngoài bờ-cõi nước nhà? Xét về vấn-đề này phải phân-biệt rõ-ràng không nên lẫn việc nọ với việc kia, mà làm cho rối trí…” (trích tr.113-114, Thượng Chi Văn Tập. Bộ Quốc Gia Giáo Dục tái bản lần thứ I, 1962)



Lại liên tưởng qua một câu chuyện khác, là lần về quê thăm Thầy, trút hết câu chuyện mình cho là cả kinh để phàn nàn Ông sao chẳng hề lên tiếng, Ông rót trà bình thản, mà ánh mắt trừng sáng: “dân tộc mình bao phen mất đất, mất biển đều có thể lấy lại được, còn như mất văn hóa là mất hết tất cả con à!” Từ câu nói này, ai dám bảo người làm văn hóa đích thực không hàm chứa ý thức chính trị, nhưng ngược lại người làm chính trị, thiếu ý thức văn hóa, ắt tai họa đã sẵn.

Người ta nói với tôi, chê Ông chỉ là người ‘làm văn hóa thuần túy!’ Mà làm’ văn hóa thuần túy’ bây giờ, như Ông, chắc gì đã dễ!

(Bài đã đăng trên bán nguyệt san Quán Văn, 2010)


2. ‘Nỗi buồn tiếng Việt’

Tôi không biết đích xác ở những quốc gia khác trên thế giới, từng có cuộc nội chiến, thì sau bao nhiêu năm khói lửa điêu linh, người dân của những xứ sở này, trước sau, vẫn phải nhìn nhau và, nói với nhau bằng loại hình ngôn ngữ nào? Họ có đang bị lâm vào tình cảnh éo le như chúng ta hiện nay?

Dân tộc chia rẻ trong nhiều thời đại!, cộng đồng chia rẻ ở mọi lãnh vực nhân văn! Chữ nghĩa bấy giờ cũng được đem ra mổ xẻ để biểu dương tính đối kháng, cốt không phải để phục vụ cho chiều hướng phát triển tích cực của khoa ngữ học xã hội, mà nó luôn nằm giữa những thái độ thuần tính chính trị.

Những người con của Mẹ Âu Cơ, một thời xuống biển và lên núi, lúc quay về thành thị nhìn nhau bỗng không thể nói và nghe ra được điều gì. Tâm trạng bấy giờ có ngậm ngùi không?

Chẳng trách nhà thơ Viên Linh, cuối khổ thơ Dư Tập – Thủy Mộ Quan, ông đã không nhắc có một tiếng nói chung mà, lại gợi lên hình ảnh nức lòng: ‘tiếng khóc chung’.

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.
(Dư Tập, Thủy Mộ Quan – Viên Linh)

Hôm nay, những biểu tượng tranh đấu cho dân chủ nhân quyền Việt Nam như Điếu Cày, Lê Thị Công Nhân, Mẹ Nấm, Bùi Thị Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trịnh Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy v.v và v.v…, đang dùng ngôn ngữ nào để nói với thế giới về tình yêu của mình đối với một mảnh đất đầy thương tích. Tất nhiên phải nói bằng một loại hình ngôn ngữ xã hội mà họ đang quen sống, nhưng khác là, ngôn ngữ bấy giờ hiện thân cho Tâm Thức Nhân Bản.

Điếu Cày, Lê Thị Công Nhân, Mẹ Nấm, Bùi Thị Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trịnh Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy…, và còn nhiều gương mặt tranh đấu dân chủ khác nữa ở trong nước, sẽ chẳng cần phải dùng một loại hình ngôn ngữ định chế nào để bày tỏ cho thái độ yêu đất nước dân tộc mình, bởi ngay chính cốt lỏi của hành động, anh chị em đã thay thế cho hàng triệu người Việt Nam vẫn khao khát tự do hòa bình, dân chủ nhân quyền mà, trong đó đại diện cho cả chúng ta, để nói lên một tiếng nói chung rồi!

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.
(Dư Tập, Thủy Mộ Quan – Viên Linh)


Ảnh: Tác phẩm Thượng Chi Văn Tập của học giả Phạm Quỳnh, Bộ Quốc Gia Giáo Dục ấn hành 1962 (Ảnh tư liệu của Nguyên Việt)

Bài đọc thêm: Tiếng Việt nào? (Nguyễn Hưng Quốc)

UYÊN NGUYÊN
http://nguoivietblog.com/uyennguyen/?p=2410

No comments:

Post a Comment